Thứ Sáu, 27 tháng 8, 2010

BÀI VIẾT HAY

Ngô Bảo Châu và bổ đề cơ bản

Tạp chí Time vừa bình chọn 10 khám phá khoa học nổi bật nhất trong năm 2009, trong đó có chứng minh Bổ đề cơ bản của Ngô Bảo Châu, một nhà toán học người Việt đang làm việc ở Pháp và Mỹ. Đây là thành tích nổi bật nhất về khoa học của người Việt Nam từ trước đến nay. Đọc thông tin về Bổ đề này tôi thấy rất khó hiểu, khó hiểu hơn rất nhiều lần khi tôi đọc về Định đề Poincare và huy chương Fields cho nhà toán học Nga Perelman. Có thể về Định đề Poincare và câu chuyện của Perelman có bài viết rất xuất sắc của Nasar và Grube trên tạp chí The New Yorker nên tôi có thể nắm bắt được vấn đề. Tôi cũng muốn đọc một bài viết tương tự như thế về Bổ đề cơ bản này, nhưng hiện nay tôi không tìm thấy một bài viết nào như vậy. Nếu không có bài viết nào thì tại sao tôi thử viết về chính nó như một cách tôi hiểu nó như thế nào. Nếu tôi không hiểu được vấn đề này thì tôi tin rằng đa số người Việt Nam cũng không hiểu được vấn đề này. Thấy Time bình chọn thì ta cùng vui vỗ tay, mà thực ra không biết vỗ tay vì cái gì.

Câu chuyện có lẽ phải quay về Galois, nhà toán học người Pháp, người đặt nền móng cho toán học hiện đại. Cuộc đời của Galois là câu chuyện về một thiên tài đoản mệnh mang âm hưởng như một sáng tác văn chương. Trong đêm cuối cùng của cuộc đời mình, Galois để lại bức thư tuyệt mệnh trong đó có nêu phát hiện mối liên hệ giữa lý thuyết nhóm và lời giải phương trình đa thức. Trước Galois, người ta đã biết phương trình đa thức từ bậc 5 trở lên không có công thức nghiệm tổng quát. Đó là nội dung của định lý Abel. Chẳng hạn như phương trình bậc nhất a x + b = 0 có công thức nghiệm tổng quát x=-b/a, nhưng phương trình từ bậc 5 trở lên không thể có công thức tính nghiệm kiểu như vậy. Mặc dù không có công thức nghiệm tổng quát, các phương trình đa thức từ bậc 5 trở lên vẫn có thể có nghiệm, thế nhưng định lý Abel không cho biết khi nào chúng có nghiệm và có thể giải được. Lý thuyết của Galois trả lời được vấn đề này. Kết quả là một phương trình đa thức có thể giải được hay không phụ thuộc vào các nghiệm số của nó có tạo thành một nhóm hoán vị hay không. Nhóm hoán vị này gọi là nhóm Galois. Chẳng hạn đối với phương trình bậc 2: a x^2 + b x + c = 0 có nghiệm số x1, x2 thỏa mãn công thức Viete: x1+x2=-b/a và x1*x2=c/a. Nếu đổi chỗ hai nghiệm này cho nhau trong công thức Viete thì ta vẫn thu được đẳng thức đúng: x2+x1=-b/a và x2*x1=c/a. Như vậy nghiệm số của phương trình bậc 2 có hai phép đối xứng: một là đồng nhất và hai là hoán vị. Chúng tạo thành nhóm Galois, và do vậy phương trình bậc 2 là phương trình giải được. Từ khái niệm nhóm Galois người ta phát triển tới khái niệm biểu diễn Galois. Biểu diễn Galois có thể xem là diễn tả mối quan hệ phức tạp giữa các nghiệm số của các phương trình nghiên cứu trong lý thuyết số.

Từ thế kỷ 17 Fermat, một nhà toán học Pháp, từng đặt câu hỏi một số nguyên tố lẻ như thế nào có thể viết thành tổng của hai số chính phương? Ví dụ như 13=3^2 + 2^2. Fermat tìm ra số nguyên tố lẻ là đồng dư 1 của 4 (có nghĩa là chia cho 4 dư 1) có tính chất như vậy. Ví dụ như các số 5, 13, 17... Như vậy mẫu hình cho số nguyên tố lẻ là đồng dư 1 của 4 có tính chất chu kỳ, hay nói cách khác là có tính chất đối xứng. Định lý Fermat này là ví dụ đơn giản cho bài toán tổng quát hơn có tên gọi là định luật nghịch đảo. Định luật nghịch đảo tìm điều kiện để một phương trình bình phương đồng dư một số nguyên tố có nghiệm. Đầu thế kỷ 20 Artin, một nhà toán học Áo tổng quát thành định luật nghịch đảo mà bây giờ được mang tên ông. Đến năm 1967 Langlands, một nhà toán học Mỹ gốc Canada, tìm ra mối liên quan với hình thức tự cấu. Hình thức tự cấu có thể coi là những hàm số đối xứng cao. Ví dụ đơn giản là hàm sin(x) hay cos(x). Các hàm số này có tính chất chu kỳ, hay nói cách khác chúng bất biến nếu ta dịch chuyển cả đồ thị hàm số dọc theo trục x đi 2 pi. Đây là tính chất đối xứng đơn giản. Langlands chỉ ra tương lai của lý thuyết số là ở hiểu biết các hàm số có tính chất chu kỳ kỳ lạ hay ở các dạng phức hợp khác. Ông nhận thấy một số (ví dụ như số 4 trong định lý Fermat kể trên là chu kỳ cho số nguyên tố lẻ có tính chất là tổng của hai số chính phương) thực ra là một ma trận 1x1. Như vậy sự dịch chuyển chu kỳ kiểu như vậy trong định lý Fermat kể trên có thể biểu diễn bằng một số hay một ma trận 1x1. Với các định luật nghịch đảo tổng quát hơn khoảng cách dịch chuyển biến đổi đằng sau chúng có thể biểu diễn bằng ma trận có kích thước lớn hơn. Đây là một định đề của Langlands trong chương trình mang tên ông.

Các nhà toán học khi khám phá các quy luật toán học thường hay phát biểu dưới dạng định đề, tức là một mệnh đề toán học mà có lẽ nó đúng nhưng hiện tại chưa chứng minh được hay mới chỉ chứng minh được tính đúng của nó cho một số trường hợp con. Bằng cách nào mà các nhà toán học phát minh ra được các định đề là một điều bí ẩn, ít nhất là trong cảm nhận của tôi. Tôi có cảm giác đó như là một nghệ thuật hay là một dạng mặc khải về cái đẹp, có nghĩa là chúng ta chỉ có thể kinh ngạc hay sững sờ về chúng mà không thể tài nào lý giải được tại sao chúng lại có thể xuất hiện và hợp lý đến thế. Năm 1967 Langlands đề xuất mối liên hệ mật thiết giữa đại số và giải tích, mà cụ thể hơn là sự tương ứng giữa biểu diễn Galois và hình thức tự cấu. Đấy là chương trình Langlands, và là một lý thuyết thống nhất lớn của toán học trong đó bao gồm cả tìm kiếm tổng quát hóa của tính nghịch đảo Artin đến mở rộng Galois cho trường số.

[........]

Bổ đề cơ bản nằm trong chương trình Langlands. Nó là một kết quả quan trọng trong lý thuyết hình thức tự cấu. Năm 1979, Labesse và Langlands công bố khám phá hiện tượng về hai biểu diễn tự cấu cùng tương ứng với một hàm số L có thể xảy ra với bội khác nhau trong không gian của các hình thức tự cấu. Ban đầu Labesse và Langlands mới chỉ chứng minh cho nhóm SL(2). Sau đó Kottwitz chứng minh cho nhóm SL(3), và được Waldspurger chứng minh cho toàn bộ nhóm SL(n). Hales và Weissauer chứng minh cho nhóm Sp(4). Kottwitz và Rogawski chứng minh cho nhóm unitary U(3). Sau đó Laumon và Ngô Bảo Châu chứng minh cho toàn bộ nhóm unitary U(n). Với kết quả này, Laumon và Ngô Bảo Châu được trao giải thưởng nghiên cứu Clay vào năm 2004 cùng với Green. Năm 2008 Ngô Bảo Châu chứng minh cho tất cả trường hợp và kết quả được khẳng định vào năm nay. Như vậy Ngô Bảo Châu đặt dấu chấm cuối cùng cho Bổ đề cơ bản. Lịch sử 30 năm của Bổ đề cơ bản có vẻ như kết thúc ở đây. Nhưng có lẽ không hẳn như vậy. Chứng minh của Ngô Bảo Châu, theo như tôi lờ mờ hiểu, là cho các trường hợp unramified. Còn với các trường hợp ramified như thế nào thì nằm ngoài khả năng hiểu biết của tôi.

[........]

Toán học hiện đại ngày nay đã quá sâu để những người bình thường có thể hiểu được các nhà toán học đang làm gì. Tôi hình dung các nhà toán học như một câu lạc bộ cửa đóng then cài, ở trong đấy họ đang "tự sướng" với nhau. Không phải bởi vì nơi đấy có những tường che chắn những con mắt của thiên hạ nhìn vào, mà là ở nơi đấy có những bức tường vô hình về kiến thức mà những người bình thường không thể nào phóng tầm mắt qua được. Nhưng rõ ràng có một vấn đề rất lớn: các nhà toán học đang "tự sướng" bằng tiền của thiên hạ mà thiên hạ lại không thể nào hiểu được niềm sung sướng lớn lao đang ngự trị nơi các nhà toán học đó. Một vấn đề rất không bình thường. Một hệ thống tự khép kín luôn dẫn đến tha hóa. Tôi hình dung về một tình thế khủng khiếp nhất về toán học: vị hoàng đế cởi truồng. Liệu có thể xảy ra không? Tại sao lại không thể, khi mà rất ít người có thể hiểu được các nhà toán học đang làm gì. Tôi nhớ tới Perelman, nhà toán học duy nhất từ trước đến nay từ chối nhận Huy chương Fields, đã viết: "Tôi thất vọng về toán học và tôi muốn thử một điều gì đó khác". Toán học đã ở một vị trí khác hẳn các lĩnh vực khoa học khác như vật lý hay sinh học, nơi mặc dù có những trở ngại nhất định, nhưng các khám phá vật lý hay sinh học lớn, ví dụ như các giải thưởng Nobel, đều có thể diễn giải cho dân chúng bình thường hiểu. Tôi cảm thấy rằng vẻ đẹp luôn mang tính phổ quát. Do đó phàm là đẹp thì bao giờ cũng có cách để mọi người đều có thể thưởng thức và cảm nhận được. Cái mà chỉ một số ít người có thể cảm nhận được, không phải là cái đẹp thực sự, có chăng chỉ là một thứ đèm đẹp mà thôi.

Với thành tích chứng minh Bổ đề cơ bản này, Ngô Bảo Châu đang là một ứng cử viên sáng giá cho Huy chương Fields, giải thưởng sẽ được công bố vào năm 2010. Đây cũng là cơ hội cuối cùng cho Ngô Bảo Châu. Một giải thưởng lớn lao như vậy cho một người Việt Nam sẽ là một sự kiện mang tính lịch sử và văn hóa đối với Việt Nam. Nếu được Huy chương Fields, trường hợp của Ngô Bảo Châu đối với Việt Nam có lẽ cũng tương tự như trường hợp của Khâu Thành Đồng (Shing-Tung Yau) đối với Trung Quốc. Nhưng có lẽ có thể có một điểm khác biệt: Khâu Thành Đồng là một nhà toán học "phò chính thống" đối với chính quyền Trung Quốc. Trường hợp của Ngô Bảo Châu thật khó mà tiên đoán, nhưng Ngô Bảo Châu từng viết một bức thư ngỏ về dự án bauxite ở Việt Nam, một trường hợp hiếm hoi trong số các nhà khoa học xuất thân từ các lớp năng khiếu ở Việt Nam, đang học tập và làm việc ở nước ngoài. Thế hệ của Ngô Bảo Châu là thế hệ đầu tiên được du học ở các nước phương Tây, khác với những lớp người trước đấy toàn du học ở các nước Đông Âu. Thế hệ đấy cũng là thế hệ chứng kiến sự sụp đổ của bức màn sắt vốn chia đôi châu Âu trong hàng chục năm. Những biến đổi của lịch sử và chính trị không thể không phán ánh trong thế giới quan và nhân sinh quan của những người thuộc thế hệ đấy, bất kể họ có giam mình đến đâu trong tháp ngà khoa học. Sự khác biệt giữa họ chỉ là công khai hay không công khai nhãn quan của mình, lựa chọn một ứng xử nhất định trước xã hội và chính trị đầy bất định. Những người nổi tiếng, nhất là nổi tiếng trong khoa học hay văn học ở những đất nước có những đặc điểm riêng biệt, đều mang trên mình một định mệnh. Đó là định mệnh gì thì thời gian sẽ có câu trả lời. Họ thực sự là những con người đang đi trong sương? Có phải vậy không?

Những nhân vật xuất chúng thường có những cơ duyên kỳ lạ mà không thể nào phân tích được. Bởi vì cuộc đời chỉ có một lần, không thể giả sử thế này hay thế khác. Tất nhiên bao trùm lên cơ duyên chính là tài năng. Cơ duyên thứ nhất của Ngô Bảo Châu chính là bức màn sắt chia đôi châu Âu sụp đổ và Ngô Bảo Châu không phải du học ở các nước Đông Âu. Nếu đây là một bước ngoặt thì định mệnh của Ngô Bảo Châu là gắn với kết thúc của một lịch sử ở châu Âu. Không phải là nếu học ở một nước Đông Âu thì khả năng thành công kém đi, mà là nếu học ở một nước Đông Âu cuộc đời có thể không giống như đang xảy ra. Bước ngoặt thứ hai là Ngô Bảo Châu du học ở Pháp và được học với Laumon. Nếu không học với Laumon, Ngô Bảo Châu vẫn có thể thành công vang dội, nhưng chắc hẳn sẽ không gắn với Bổ đề cơ bản này. Một duyên phận, duyên phận của một cá nhân xuất chúng. Cái gì liên kết số phận của một cá nhân với những biến đổi khôn lường của lịch sử và với những cá nhân khác? Thật khó mà trả lời được, chỉ có thể nói rằng đấy là cơ duyên.

Vào một tối mùa hè năm 2006 hàng trăm nhà vật lý tề tựu tại khách sạn Hữu nghị ở Bắc Kinh để nghe bài thuyết trình của Khâu Thành Đồng. Đây có phải là viễn cảnh tương lai của Ngô Bảo Châu? Ở đây cũng có thể có điểm khác biệt: đấy là khát khao vị thế của Khâu Thành Đồng như một biểu tượng của trí tuệ trong cộng đồng khoa học của Trung Quốc. Việt Nam dường như không có truyền thống như vậy trong khoa học: một chiếc ngai vàng ngự trị trong giới hàn lâm. Trong một lần diễn thuyết ở Đại học Triết giang, Khâu Thành Đồng nói rằng: "Khi bước ra khỏi máy bay và chạm chân xuống mặt đất Bắc Kinh, tôi cảm thấy một niềm xúc động lớn lao trở về đất mẹ. Tôi tự hào nói rằng khi được trao Huy chương Fields trong toán học, tôi không mang hộ chiếu của bất kỳ quốc gia nào, và phải được công nhận dứt khoát là người Trung Quốc." Câu chuyện quốc tịch muôn hình vạn trạng. Khi Chopin chết người ta đã xẻ trái tim ông ra mang về Ba Lan, cất trong một cái cột ở nhà thờ có dòng chữ "Châu báu của ngươi ở đâu, trái tim của ngươi ở đấy". Những gì quý giá nhất của Chopin phải nằm ở Ba Lan, chứ không thể nằm ở Pháp. Nhưng Ngô Bảo Châu vẫn đang mang hộ chiếu Việt Nam.

Thứ Năm, 28 tháng 1, 2010

Bất công quá




Ghế gì êm ấm quá ta
Lại còn hổn hển thở ra hít vào

Thứ Sáu, 22 tháng 1, 2010

Mậu Ngọ, 32 tuổi

Sinh từ 7.2.1978 đến 27.1.1979
Thiên Thượng Hỏa (Lửa trên trời)

NAM MẠNG, DƯƠNG NAM – 32 TUỔI

Sao Hạn: Thái Dương thuộc hỏa, mạng hỏa gặp hạn hỏa cùng hành: rất tốt. Mưu sự hanh thông, công danh thăng tiến, tài lộc dồi dào, càng đi xa càng có lợi. Tuy nhiên hỏa vượng, tinh thần dễ nhiều bất ổn không lợi cho những người yếu Tim Mạch, Mắt. Tránh suy nghĩ nhiều, làm việc qúa sức, dễ đau đầu, mắt yếu.

Về mặt Tử Vi: tiểu hạn năm Kỷ Sửu đóng tại cung Hợi (thủy), lưu Thái tuế tại Sửu (thổ) ngộ Tuần+Triệt có các bộ sao: Lộc Tồn, Bác Sĩ, Tứ Đức (Phúc Thiên Long Nguyệt ), Tam Minh (Đào Hồng Hỉ ), Khôi Việt, Thanh Long, Lưu Hà, Tướng Ấn, Thiên Quan, Thiên Phúc, Thiếu Dương, Thiếu Âm, Thiên Không, Phi Liêm, Kiếp Sát, Tử Phù, Trực Phù, Bệnh Phù, Phá Toái, Phục Binh. Mậu Ngọ nạp âm hành hỏa do can Mậu (thổ) ghép với chi Ngọ (hỏa), hỏa sinh thổ = chi sinh can, nạp âm và can chi lại tương hợp ngũ hành: thuộc lứa tuổi có nhiều may mắn, ít gặp trở ngại, dù có gặp khó khăn và trở ngại, luôn luôn có Quý nhân phò trợ để vượt qua dễ dàng trong suốt cuộc đời.
Mậu Ngọ thuộc mẫu người cứng rắn, trực tính, lòng đầy tự hào, càng đi xa nơi sinh trưởng càng có lợi (đặc tính của can Mậu), mang chí lớn, nhưng không bền chí. Thích sống tự lập, ít khi muốn hợp tác với ai vì tính tự kiêu. Thường xung khắc với cha mẹ, đôi khi về già khắc cả với con cháu. Sinh vào mùa Hạ thì thuận mùa sinh, mùa Đông ít thuận lợi. Nếu Mệnh Thân đóng tại Tý Sửu thuở thiếu thời lận đận, trung vận phát phú và nổi danh. Đóng tại các cung khác, có nhiều Chính tinh và Trung tinh đắc cách hợp Mệnh, xa lánh Hung Sát tinh (+ hình tướng: Tam Đình cân xứng, Ngũ Quan đầy đặn không khuyết hãm) cũng là mẫu người có địa vị và danh vọng trong xã hội ở mọi ngành nghề. Đào Hỉ ngộ Phục Binh nên măït tình cảm thường nhiều nhầm lẫn và hối tiếc, nếu hiện dìện tại Mệnh Thân hay cung Thê. Mậu Ngọ theo Dịch lý thuộc Quẻ Phong Hỏa Gia Nhân (xem phần Lý Giải của Qủe Dịch nơi Bính Ngọ 1966-44 tuổi).
Năm hạn Kỷ Sửu thuộc hỏa, mạng hỏa gặp hạn hỏa cùng hành, thêm Kỷ hợp Mậu nhưng Sửu nhị phá Ngọ, Cát tinh nhiều hơn Hung Sát tinh + hạn Thái Dương = một năm rất nhiều thuận lợi.

Sức Khỏe
Mậu Ngọ có nhiều hỏa tính trong tuổi, khi hỏa vượng hay suy vào lúc lớn tuổi, thiếu chất chất thủy kềm chế, các bộ phận như tim mạch, ruột, miệng, lưỡi dễ có vấn đề. Nên phòng bệnh hơn chữa bệnh. Năm nay hạn Thái Dương dù nhiều sao tốt cũng nên lưu tâm đến sức khỏe (Tim Mạch, Mắt), nhất là đối với những Em đã có sẵn mầm bệnh lại sinh vào tháng (3, 5), giờ sinh (Tý, Dần, Tuất).

Gia Đạo, Tình Cảm
Bầu trời Tình Cảm tuy nắng đẹp, nhưng dễ có những cơn giông bất chợt (Đào Hồng Hỉ ngộ Phục Binh). Nên quan tâm đến gia đình nhiều hơn, dù công việc có đa đoan. Không nên phiêu lưu, cũng như có những hành động dễ gây ngộ nhận, không lợi cho đời sống lứa đôi. Thời điểm rất tốt cho những Em còn độc thân, nhiều gặp gỡ, nhiều cơ hội để chọn lựa. Nhưng cũng nên điều nghiên cho kỹ, chớ vội vàng hấp tấp, Phục Binh hiện diện nơi tiểu hạn dễ có nhiều hối lẫn và bẫy ngầm.
Phương hướng nhà cửa, giường ngủ, bàn làm việc rất có ảnh hưởng tốt hay xấu đối với sinh hoạt đời sống của mỗi người. Nếu Em nào thấy thường gặp rủi ro, sức khỏe có vấn đề, nên xem lại mặt Phong Thủy.
Mậu Ngọ Nam 1978 theo Bát Trạch thuộc Quẻ Tốn có 4 hướng tốt: Đông Nam (Tốn, phục vị), Đông (Chấn, diên niên) và Nam (Ly, thiên y) và Bắc (Khảm, sinh khí) là hướng tốt nhất. Bốn hướng còn lại xấu, trong đó hướng Đông Bắc (Cấn, tuyệt mệnh) xấu nhất. Hiện đang ở Vận 8 (2004-2023), Ngũ Hoàng Sát Nam mạng (đem lại rủi ro, bệnh tật, tai ương) nhập góc Tây Nam. Do đó trong các năm của Vận 8, phòng ngủ không nên chọn góc Tây Nam trên khuôn viên nhà ở. Niên vận Kỷ Sửu 2009, Ngũ Hoàng nhập hướng Bắc (hướng tốt nhất của tuổi, riêng trong năm nay nên treo một phong linh ở hướng Bắc trong phòng ngủ). Hướng tốt của Vận 8 + Năm nay = Nam. Bàn làm việc, giường ngủ kê sao (khi ngồi dậy) mặt nhìn về hướng này thì sức khỏe tốt, mưu sự hanh thông.
Màu sắc hợp: đỏ, hồng, xanh. Kỵ: xám, đen. Nếu dùng xám, đen, nên chen lẫn xanh hay vàng, nâu để giảm bớt sự khắc kỵ.

Việc Làm, Tài Lộc
Lộc Tồn + Tam Minh thêm hạn Thái Dương = thời điểm thuận lợi cho sự thay đổi, khuếch trương hay mở rộng địa bàn hoạt động, nhất là lãnh vực Kinh Doanh, Đầu Tư, Chứng Khoán. Tài lộc vượng vào đầu mùa Hạ.

Mùa Xuân
Tháng giêng (Bính Dần, hỏa) Tứ Linh + Mã Khốc Khách = thời điểm thuận lợi để tiến hành hay dự tính các công việc quan trọng, tuy có nhiều chi phí (Song Hao), nhưng mọi việc có kết qủa tốt với sự mềm mỏng và từ tốn không vội vã. Sao Tâm không lợi về xây cất, hiếu hỉ.
Tháng hai (Đinh Mão, hỏa) Đào Hỉ + Phục Binh = bầu trời tình cảm tuy nắng đẹp, nhưng dễ có nhiều bẫy ngầm. Đối với kẻ xấu không nên dùng biện pháp mạnh. Nên làm nhiều việc thiện có thể bớt được rủi ro: gieo nhân nào, gặt qủa đó. Sao Vĩ xấu.
Tháng ba (Mậu Thìn, mộc) Phượng Mã+ Văn Tinh, Tấu Thơ = lợi cho lãnh vực Văn Học Nghệ Thuật, nhưng cẩn thận sức khỏe và di chuyển. Luôn luôn Trau dồi nội lực, tự xét mình, vị tha, sẵn sàng giúp người không vụ lợi. Sao Cơ dễ khẩu thiệt, tránh thưa kiện.

Mùa Hạ
Tháng tư (Kỷ Tỵ, mộc) Lộc Tồn + Hà Sát = tháng vượng nhất về mặt Tài Lộc nhưng không nên chủ quan và ham hố, rủi ro thường nấp sau may mắn. Lộc bất khả hưởng tận. Nên hoà đồng không phe đảng, bớt cứng rắn. Sao Đẩu xấu.
Tháng năm (Canh Ngọ, thổ) Tháng tuổi + Kình Dương = lái xe, thể thao (trượt băng, trượt tuyết), làm việc cạnh vật nhọn (dao kéo, dàn máy nguy hiểm) nên cẩn thận tối đa, dễ bị thương tay chân. Lưu ý về ẩm thực, mềm mỏng trong đối thọai, tránh tranh luận. Sao Ngưu xấu. Nên nhớ năm nay có thêm tháng 5 nhuận!.
Tháng sáu (Tân Mùi, thổ) nhiều bất ngờ tốt về công việc và mưu sự, nhưng cẩn thận vế Tim mạch, mắt, tránh lo nghĩ nhiều, thức khuya, làm việc nhiều trên màn hình. Không nên bỏ ngang. Sao Nữ tốt về tế tự, hiếu hỉ.

Mùa Thu
Tháng bảy (Nhâm Thân, kim) Mã + Cô Tang = đi xa có lợi, song dễ có phiền muộn và nhiều chi phí (Song Hao). Nên từ tốn và tùy thời mà hành động: dục tốc bất đạt. Sao Hư tốt.
Tháng tám (Qúy Dậu, kim) bầu trời tình cảm tuy nắng nắng đẹp, nhưng cần thận trọng với kẻ xấu, kể cả trong nghiệp vụ. Nên quan tâm đến tim mạch, thị giác, thận. Dễ đau đầu mất ngủ. Sao Nguy lợi về xây cất.
Tháng chín (Giáp Tuất, hỏa) công việc và mưu sự hanh thông, nhất là lãnh vực Văn Hoá Nghệ Thuật, Địa Ốc, Xe Cộ. Nên hết lòng với người trên và nâng đỡ kẻ dưới. Sao Thất tốt.

Mùa Đông
Tháng mười (Ất Hợi, hỏa) tin vui và quà tặng. Nên quan tâm nhiều đến sức khỏe, nhất là những Em có vấn đề Tim Mạch, Mắt. Hoà đồng và mềm mỏng. Sao Bích tốt về dọn nhà.
Tháng mười một (Bính Tý, thủy) thủy khắc nhập hỏa + Phá Hư = khó khăn và nhiều bực mình, kết qủa không vừa ý. Dễ bị đau răng, cổ họng. Sao Khuê tốt.
Tháng chạp (Đinh Sửu, thủy) cẩn thận trong quyền hành và trách nhiệm, nhất là ở vị trí Xếp. Sức khỏe kém (Bệnh Phù). Tránh thức khua và xử dụng nhiều màn hình. Sao Lâu tốt.

NỮ MẠNG, DƯƠNG NỮ – 32 TUỔI

Sao Hạn: Thổ Tú thuộc thổ, mạng hỏa gặp hạn thổ, hỏa sinh xuất thổ: tốt nhưng nhiều mệt mỏi. Mưu sự và công việc có hanh thông nhưng mệt trí, công danh thăng tiến, tài lộc vượng, sức khỏe khả quan. Thổ Tú dễ gây bất hòa với mọi người, dễ bị tiểu nhân gây rối. Nên lưu ý các tháng Kị (4, 8).

Về mặt Tử Vi: tiểu hạn năm Kỷ Sửu đóng tại Dậu (kim), lưu Thái Tuế đóng tại cung Sửu (thổ) ngộ Tuần + Triệt có các bộ sao: Tứ Đức (Phúc Thiên Long), Tam Minh (Đào Hồng Hỉ), Lộc Tồn, Bác Sĩ, Khôi Việt, Tướng Ấn, Thiên Quan, Thiên Phúc, Thanh Long, Lưu Hà, Thiếu Dương, Thiếu Âm, Thiên Không, Tử Phù Trực Phù, Bệnh Phù, Phi Liêm, Kiếp Sát, Phá Toái, Phục Binh.
Mậu Ngọ nạp âm hành hỏa do can Mậu (thổ) ghép với chi Ngọ (hỏa), hỏa sinh thổ = chi sinh can, nạp âm và can chi lại tương hợp ngũ hành: thuộc lứa tuổi đời có nhiều may mắn, ít gặp trở ngại, dù có bị trở ngại cũng được quý nhân phò trợ để vượt qua dễ dàng. Hậu vận an nhàn hơn Tiền vận. Mậu Ngọ thuộc mẫu người hiếu động, cứng rắn, trực tính, lòng đầy tự hào. Càng đi xa nơi sinh trưởng càng có lợi (đặc tính của can Mậu), lòng mang lý tưởng cao đẹp nhưng không bền tâm. Thích sống tự lập, không muốn nhờ vả ai, ngay cả người thân. Thường xung khắc với cha mẹ, về già có khi khắc với con cháu. Bản tính thông minh, nhạy cảm, nhanh nhẹn (cầm tinh con ngựa), hoạt bát, rất hào phóng. Sinh vào mùa Xuân hay mùa Hạ là thuận mùa sinh.Mùa Đông ít thuận lợi. Nếu Mệnh Thân đóng tại Tý, Sửu thuở thiếu thời lận đận, trung vận phát phú. Đóng tại Mão, Dậu nỗi danh tài sắc. Đóng tại các cung khác có nhiều Chính tinh và Trung tinh đắc cách, xa lánh Hung Sát tinh (+ hình tướng: Tam Đình cân xứng, Ngũ Quan đầy đặn không khuyết hãm, da dẻ tóc tai tươi nhuận) là mẫu người Vượng Phu Ích Tử, thành công có địa vị và danh vọng trong xã hội ở mọi ngành nghề. Mậu Ngọ theo Dịch lý thuộc Quẻ Phong Hỏa Gia Nhân (xem phần Lý Giải của Qủe Dịch nơi Bính Ngọ 1966 – 44 tuổi).
Năm hạn Kỷ Sửu thuộc hỏa, mạng hỏa gặp hạn hỏa cùng hành: tốt, thêm Kỷ hợp Mậu, dù Sửu nhị phá Ngọ, nhưng có nhiều Cát tinh hơn Hung Sát tinh = một năm vẫn có nhiều thuận lợi hơn khó khăn ở một vài mặt.

Sức Khỏe
Mậu Ngọ chứa nhiều hỏa tính trong tuổi. Khi lớn tuổi, hỏa vượng hay suy, nếu thiếu chất thủy chế ngự, các bộ phận như ruột, tim, miệng lưỡi dễ có vấn đề. Nên phòng bệnh hơn chữa bệnh. Năm nay hạn Thổ Tú dễ có vấn đề về khí huyết, nhất là đối với những Em đã có sẵn mầm bệnh lại sinh vào tháng (1, 5), giờ sinh (Dần, Tuất, Thìn, Thân) cần đề cao cảnh giác.

Gia Đạo, Tình Cảm
Bầu trời Tình Cảm tuy nắng đẹp nhưng cũng dễ có những cơn giông bất chợt, nên chú tâm vào đời sống gia đình nhiều hơn, dù công việc đa đoan. Nên bỏ ngoài tai những thị phi, đàm tiếu, lời đồn đại ác ý của kẻ xấu tâm địa, cũng không nên có những cử chỉ dễ gây ngộ nhận. Hạn Thổ Tú thêm Đào Hồng+Phục Binh dễ có nhiều bất hòa tranh cãi gây tổn thương bầu không khí vốn đang thuận hòa êm ả. Riêng các Em độc thân, dù có nhiều cơ hội thuận lợi cũng nên thận trọng trước mọi quyết định, cần điều nghiên kỹ, nếu không dễ đi vào lối mòn cũ.
Phương hướng nhà cửa, giường ngủ, hay bàn làm việc rất có ảnh hưởng tốt hay xấu trong sinh hoạt đời sống của mỗi người. Nếu Em nào thường gặp rủi ro hay sức khỏe có vấn đề, nên xem lại mặt Phong Thủy. Mậu Ngọ Nữ 1978 theo Bát Trạch thuộc Quẻ Khôn có 4 hướng tốt: Tây Nam (Khôn, phục vị), Tây (Đoài, thiên y), Tây Bắc (Càn, diên niên) và Đông Bắc (Cấn, sinh khí) là hướng tốt nhất. Bốn hướng còn lại xấu trong đó Bắc (Khảm, tuyệt mệnh) là hướng xấu nhất. Hiện tại đang ở Vận 8 (2004-2023), Ngũ Hoàng Sát Nữ mạng (đem rủi ro, tai ương và tật bệnh) nhập góc Đông Bắc (hướng tốt nhất của tuổi). Do đó trong các năm của Vận 8 phòng ngủ không nên chọn góc Đông Bắc trên khuôn viên nhà ở. Niên vận Kỷ Sửu 2009 Ngũ Hoàng nhập hướng Nam (Lục Sát, độ xấu tăng thêm, trong năm nay nên treo một phong linh ở hướng Nam trong phòng ngủ). Hướng tốt của Vận 8 + Năm nay = Tây và Tây Bắc. Bàn làm việc và giường ngủ kê sao (khi ngồi dậy) mặt nhìn về các hướng này thì giấc ngủ thoải mái, mưu sự hanh thông.
Màu sắc thích hợp: xanh, hồng, đỏ. Kỵ: xám, đen. Nếu dùng xám, đen nên xen lẫn xanh hay vàng , nâu để giảm bớt sự khắc kỵ.

Việc Làm, Tài Lộc
Lộc Tồn + Tam Minh, Tướng Ấn, Khôi Việt = thời điểm thuận lợi cho sự thay đổi, khuếch trương, đầu tư hay mở rộng địa bàn hoạt động. Nên lưu ý tháng kị, Phục Binh: dễ có cạnh tranh, ganh ghét và lừa lọc. Tài lộc vượng vào đầu mùa Hạ.

Mùa Xuân
Tháng giêng (Bính Dần, hỏa) Tứ Linh + Mã Khốc Khách = đem lại nhiều thuận lợi trong công việc lẫn giao tiếp, kể cả di chuyển xa tuy nhiều chi phí nhưng kết qủa tốt. Mọi việc nên tiến hành chậm và chắc. Sao Tâmkhông lợi về xây cất, hiếu hỉ.
Tháng hai (Đinh Mão, hỏa) bầu trời tình cảm đầy nắng đẹp nhiều gặp gỡ, có thêm bạn mới, lợi cho các Em còn độc thân với sự cẩn trọng (Đào Hồng Hỉ +Phục Binh). Nên làm việc Thiện (Tứ Đức) hay tham dự các hoạt động Thiện Nguyện vừa lợi sức khỏe, đỡ rắc rối, bớt phiền muộn lại tăng thêm uy tín. Sao Vĩ xấu.
Tháng ba (Mậu Thìn, mộc) Cô Qủa + Đà = nhiều phiền muộn, cẩn thận xe cộ và sức khỏe, nhờ Phượng Giải nên rủi ro nếu gặp, độ xấu nhẹ. Trau dồi đức hạnh, tự cải thiện, giúp người không vụ lợi. Sao Cơ dễ khẩu thiệt, tránh thưa kiện.

Mùa Hạ
Tháng tư (Kỷ Tỵ, mộc) tháng thuận lợi về mặt Tài Lộc, tuy nhiên là tháng kị của Thổ Tú = không nên quá chủ quan, nên mềm mỏng và hoà đồng với mọi người, không phe đảng và không vụ lợi. Sao Đẩu xấu.
Tháng năm (Canh Ngọ, thổ) tháng tuổi + Kình = lái xe, thể thao (trượt băng, trượt tuyết), việc làm cạnh vật nhọn (dao kéo,dàn máy nguy hiểm) nên cẩn trọng, dễ bị thương. Săn sóc sức khỏe (tiêu hóa, tim mạch, mắt, khí huyết). Tránh tranh luận , nên nhu hòa trong đối thoại. Sao Ngưu xấu. Nên nhớ năm nay có thêm tháng 5 nhuận!.
Tháng sáu (Tân Mùi,thổ) Thiên Không + Phục Binh = nhiều bất ngờ xấu. Đề phòng tiểu nhân (đố kị, ghen ghét, cạm bẫy), thị phi, khẩu thiệt. Nên biết dừng đúng lúc và tuỳ thời. Sao Nữ tốt về tế tự, hiếu hỉ.

Mùa Thu
Tháng bảy (Nhâm Thân, kim) Mã + Tang = dự tính đi xa không mấy thuận lợi, dễ gặp rắc rối và phiền muộn (Cô Qủa). Có tin buồn và nhiều hao tán. Sao Hư tốt.
Tháng tám (Qúy Dậu, kim) tháng kị của Thổ Tú = cẩn thận mặt tình cảm và sức khỏe (khí huyết, tim mạch). Sáng suốt và mềm mỏng trong hành động. Sao Nguy lợi về xây cất.
Tháng chín (Giáp Tuất, hỏa) Tứ Linh = tháng đẹp trong năm, được cả ba yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Công việc nhiều tiến triển, thuận lợi với các họat động: Văn hóa Nghệ thuật, Điạ Ốc, Xe cộ, Siêu Thị, Tửu Lầu. Sao Thất tốt.

Mùa Đông
Tháng mười (Ất Hợi, hỏa) tuy hên về tiền bạc, nhưng dễ gặp trở ngại nhiều về tình cảm và công việc. Hợp quần gây sức mạnh nên hòa đồng và nhu thuận. Sao Bích tốt về dọn nhà.
Tháng mười một (Bính Tý, thủy) Tuần + Triệt gây trở ngại cho các hoạt động đang hanh thông, nhưng nếu đang khó khăn, muốn thay đổi hướng hoạt động thì có lợi. Không nên phản ứng mạnh dù gặp nhiều bất đồng, kết quả không vừa ý. Đề phòng đau răng. Sao Khuê tốt.
Tháng chạp (Đinh Sửu, thủy) Tướng Ấn + Triệt = cẩn thận về chức vụ và quyền hành, nhất là ở vị trí Chỉ huy. Dễ có đố kị, ganh ghét (Phục Binh). Sao Lâu tốt.
*
Mậu Ngọ hợp với tuổi (năm, tháng, ngày, giờ) Mậu Tuất, Giáp Tuất, Bính Tuất, Canh Dần, Bính Dần, Mậu Dần, Canh Ngọ, Nhâm Ngọ, hành mộc, hành hỏa và hành thổ.
Kỵ tuổi Bính Tý, Giáp Tý, hành thủy, không hợp với hành kim.

Thứ Sáu, 15 tháng 1, 2010

9 điều khiến bạn thành người hạnh phúc

Nếu có được hơn một nửa những thói quen, sở thích sau thì chắc chắn bạn sẽ là người rất hạnh phúc trong cuộc sống.

Đó là kết quả điều tra, nghiên cứu của tạp chí Dự phòng - một tạp chí chuyên nghiên cứu bảo vệ sức khỏe của Mỹ.

1. Hay cười khi chụp ảnh: Theo kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học Mỹ, những người từ nhỏ đã có thói quen cười tươi mỗi khi chụp ảnh thì lớn lên tỷ lệ ly hôn của họ sẽ thấp hơn người khác tới 5 lần.

Con người là một bộ phận cấu thành của xã hội nên người thích vui vẻ sẽ dễ thu hút và tìm được bạn đời tương tự, từ đó xây dựng cuộc sống hôn nhân hạnh phúc.

2. Bày các đồ kỷ niệm sau mỗi chuyến du lịch trên bàn: Người hay bày các món đồ kỷ niệm hoặc những bức ảnh chụp sau mỗi chuyến đi du lịch trên bàn sẽ có cuộc sống hạnh phúc hơn những người khác.

Một giáo sư tâm lý của trường Đại học California cho rằng, những món đồ kỷ niệm đó sẽ nhắc bạn luôn nhớ đến khoảng thời gian vui vẻ, hạnh phúc của chuyến du lịch.

3. Không ham mê xem tivi: Trường Đại học Maryland, Mỹ vừa công bố kết quả cuộc theo dõi, điều tra xã hội đối với gần 45.000 người trong khoảng thời gian hơn 30 năm. Theo đó, những người có cuộc sống hạnh phúc thường xem tivi với lượng thời gian ít hơn người khác tới 30%.

Điều này thật dễ hiểu bởi hầu hết thời gian của họ đều dùng cho các hoạt động kinh doanh, giao tiếp xã hội và đọc sách.

4. Thích dùng đồ uống nóng: Khi cầm trên tay một tách trà hoặc một cốc càphê nóng, bạn sẽ có cảm giác dễ chịu và ấm áp hơn trong lòng. Điều đó khiến bạn thường xuyên có những ý nghĩ lành mạnh và tích cực.

Kết quả nghiên cứu cho thấy, những người có thói quen dùng đồ uống nóng thường chân thành và dễ tin người hơn.

5. Ham mê thể thao: Một nhà nghiên cứu người Đan Mạch đã phát hiện, 70% những người thích chạy bộ hoặc chơi thể thao cảm thấy không bị stress, đồng thời họ cũng không hay kêu ca, phàn nàn hay trách cứ cuộc sống.

Mỗi ngày chỉ cần dành 20-30 phút cho thể thao, cuộc sống của bạn sẽ hạnh phúc lên rất nhiều.

6. Có 2 người bạn thân: Cuộc điều tra xã hội gần đây với hơn 650 người đã trưởng thành và kết hôn tham gia cho thấy, những ai có 2 người bạn thân thì tinh thần sẽ luôn vui vẻ, sảng khoái.

Điều đáng ngạc nhiên là những người có nhiều bạn thân chưa chắc đã thường xuyên hạnh phúc.

7. Cuộc sống tình dục hài hòa: Chuyên gia nghiên cứu của Đại học Warwick, Anh cho rằng, sự tiếp xúc gần gũi của cơ thể là bộ phận cấu thành quan trọng của cảm giác hạnh phúc.

Những người đã kết hôn thường có hoạt động tình dục nhiều hơn người độc thân nên họ có cuộc sống hạnh phúc hơn.

8. Ở gần người vui vẻ, hài hước: Thường xuyên giao lưu, trò chuyện với những người có tính khí vui vẻ, hài hước sẽ làm bạn cảm thấy hạnh phúc, yêu đời hơn.

Nếu những người này là hàng xóm hoặc sống trong khu vực cách bạn dưới 800m thì cảm giác thoải mái của bạn sẽ tăng thêm 42%.

9. Có chị hoặc em gái: Theo một báo cáo mới công bố gần đây của Hội tâm lý học Vương quốc Anh, những phụ nữ có chị hoặc em gái sẽ lạc quan hơn và dễ thành công trong cuộc sống.

Điều này được lý giải bởi nguyên nhân các chị em gái thường dễ hòa hợp, chia sẻ với nhau hơn các anh em trai./.